Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa cổ hội tụ những nét đẹp kiến trúc qua nhiều triều đại, dành được nhiều sự quan tâm của các vua chúa. Nơi đây còn mang những nét đẹp của đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam thời xưa. Bài viết này VerbaLearn sẽ tổng hợp các bài văn mẫu cho đề bài thuyết minh về chùa Thiên Mụ thuộc chương trình ngữ văn lớp 8, giúp các bạn học sinh hiểu hơn về địa danh này.

Dàn ý chi tiết
Mở bài
– Giới thiệu khái quát về chùa Thiên Mụ.
Thân bài
1. Vị trí địa lý của chùa Thiên Mụ
– Chùa Thiên Mụ nằm trên đồi Hà Khê, và Tả ngạn Sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 ki lô mét về phía Tây.
2. Lịch sử chùa Thiên Mụ
– Nguồn gốc tên gọi chùa Thiên Mụ
– Thời gian khởi lập
– Các giai đoạn trùng tu:
+) Được xây dựng năm Tân Sửu (1601).
+) Giai đoạn 1691-1725: chùa được xây dựng quy mô hơn và trùng tu với nhiều công trình kiến trúc đồ sộ như: Điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh,…
+) Năm 1844 chùa lại được xây dựng thêm với ngôi tháp bát giác Phước Duyên, đình Hương Nguyện.
+) Năm 1904: Trận bão lịch sử quét qua đã tàn phá chùa với nhiều công trình hư hỏng.
+) Năm 1907 vua Thành Thái cho xây dựng lại nhưng không được như trước.
+) Năm 1957: chùa được trùng tu một lần nữa, thời kỳ này một số bộ phận kiến trúc như: cột kèo, đòn tay, khám thờ được thay bằng bê tông giả gỗ.
3. Công trình nổi bật trong chùa Thiên Mụ
– Tháp Phước Duyên: được vua Thiệu Trị cho xây vào năm 1844. Tháp Phước Duyên có tổng cộng 7 tầng, mỗi tầng cao 2 mét, được xây theo hình bát giác, càng lên cao càng nhỏ.
– Điện Đại Hùng: một công trình kiến trúc được bảo tồn khá nguyên vẹn dù trải qua nhiều biến cố của thời cuộc.
– Nhiều cổ vật quý giá: Tượng Phật, Đại Hồng Chung, khánh đúc đồng năm 1677, một bức hoành phi được làm bằng gỗ và được sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng
Vai trò, ý nghĩa chùa Thiên Mụ đối với du khách
4. Ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong
– Du khách cảm thấy lòng lắng lại, tĩnh tâm, bỏ lại đằng sau những phiền muộn, lo âu để sống thật bình thản và an nhiên.
– Du khách cũng cảm nhận được sự hòa quyện giữa kiến trúc với thiên nhiên như những cung bậc của thi ca.
Kết bài
– Khái quát hóa vẻ đẹp và nêu cảm nhận của bản thân về chùa Thiên Mụ.
Thuyết minh về chùa Thiên Mụ – Mẫu 1
Huế là sự kết hợp hài hòa của núi, sông và biển, là nơi có phong cảnh hữu tình với những nét đặc sắc về danh lam, thắng cảnh của một kinh thành cổ xưa. Một trong những thắng cảnh tiêu biểu của thành phố Huế đầy mộng mơ mà sâu lắng đó, không thể không kể đến chùa Thiên Mụ.
Chùa Thiên Mụ nằm trên đồi Hà Khê, và Tả ngạn Sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 ki lô mét về phía Tây. Chùa Thiên Mụ chính thức được xây dựng năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng – vị chúa đầu tiên ở đàng trong.
Tên gọi chùa Thiên Mụ gắn liền với một truyền thuyết rằng xưa kia khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét hình thế núi sông để mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Chúa hỏi người dân địa phương thì được biết nơi đây cứ vào ban đêm xuất hiện một bà lão mặc áo đỏ, quần lục ngồi trên một gò đất nói rằng sẽ có một vị chân chúa đến xây dựng chùa để tụ khí thiêng, giữ long mạch. Sau đó, chúa Nguyễn Hoàng đã cho xây dựng chùa vào năm 1601 để nhớ ơn bà chúa Trời và đặt tên chùa là Thiên Mụ tự, còn gò đất kia được người dân đặt tên là gò Thiên Mụ.
Sau này, các chúa Nguyễn và vua Nguyễn đều xem đây là ngôi Quốc tự, thường xuyên chăm lo tu bổ, tôn tạo và xây thêm nhiều công trình kiến trúc làm cho diện mạo ngôi chùa ngày càng khang trang và phong phú hơn. Dưới thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), chùa được xây dựng quy mô hơn và trùng tu với nhiều công trình kiến trúc đồ sộ như: Điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh,… tuy nhiên một số công trình không còn giữ được đến ngày nay. Đến năm 1844 chùa lại được xây dựng thêm với ngôi tháp bát giác Phước Duyên, đình Hương Nguyện. Trận bão lịch sử năm 1904 quét qua đã tàn phá chùa với nhiều công trình hư hỏng mãi đến năm 1907 vua Thành Thái cho xây dựng lại nhưng không được như trước. Đến năm 1957, chùa được trùng tu một lần nữa, thời kỳ này một số bộ phận kiến trúc như: cột kèo, đòn tay, khám thờ được thay bằng bê tông giả gỗ. Qua nhiều đợt kiến trúc, trùng tu, ngày nay chùa vẫn giữ được nhiều những công trình quy mô đồ sộ và nhiều những cổ vật quý giá như tượng phật, những bức hoành phi câu đối.
Về kiến trúc, chùa được bao bọc bởi một vòng la thành xây bằng đá và gạch mang hình dáng như một con rùa. Bước vào chùa hai bên là bốn cột trụ sừng sững và uy nghi, phía trước là bảo tháp Phước Duyên, được vua Thiệu Trị cho xây vào năm 1844. Tháp Phước Duyên có tổng cộng 7 tầng, mỗi tầng cao 2 mét, được xây theo hình bát giác, càng lên cao càng nhỏ. Lối vào bảo tháp là hai cánh cửa đồng, bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, ở trong mỗi tầng đều có xây một bàn thờ đặt tượng Phật; bảy vị Phật thờ trong tháp được gọi là “quá khứ thất Phật”.
Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, nơi dừng chân để nhà vua tĩnh túc trước khi vào lễ chùa, nay chỉ còn lại dấu tích của công trình. Hai bên tháp Phước Duyên có hai nhà lục giác xây theo dạng cổ lâu. Nhà lục giác bên trái đặt tấm bia dựng trên lưng một con rùa bằng cẩm thạch trắng, khắc bài văn của Chúa Nguyễn Phúc Chu nói về việc xây dựng chùa. Nhà bên phải đặt một chiếc chuông lớn, gọi là“ Đại Hồng Chung” được Chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc vào năm 1710, trên chuông khắc bài minh của chúa. Những họa tiết trang trí trên chuông rất phong phú, tinh xảo với trình độ mỹ thuật cao, sinh động. Quanh thân chuông khắc tám chữ “Thọ” được viết bằng nhiều cách khác nhau. Chuông cao 2,5 mét, đường kính miệng 1,4 mét và nặng trên hai tấn, là một chiếc chuông lớn nhất thời bấy giờ. Phía sau tháp Phước Duyên còn có hai tấm bia đá dựng lộ thiên, bia nhỏ đặt ở gần đế tháp Phước Duyên, nội dung ghi lại việc vua Thành Thái cho đại trùng tu tháp năm 1899; tấm bia lớn được dựng vào năm 1920 khắc bài thơ của vua Khải Định làm nhân một dịp viếng cảnh chùa. Bước vào bên trong là ngôi điện chính của chùa – điện Đại Hùng, một công trình kiến trúc được bảo tồn khá nguyên vẹn dù trải qua nhiều biến cố của thời cuộc. Phía bên trong chính điện cách bài trí thờ phụng uy nghiêm và trang trọng, gian chính giữa bàn thờ đặt trên cao có ba pho tượng đồng lớn, ở giữa là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, bên trái là Đức Phật A Di Đà, bên phải là Đức Phật Di Lặc, cách thờ tự này có ý nghĩa là Tam Thế Phật, biểu tượng cho ba thì Quá khứ, Hiện tại và Tương lai. Ngoài ra còn lưu giữ hai cổ vật quý là một khánh đúc đồng năm 1677, một bức hoành phi được làm bằng gỗ và được sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng. Đi theo lối bên hông điện ra phía sau vườn là nhà trưng bày những hình ảnh và chiếc xe của hòa thượng Thích Quảng Đức, người tự thiêu vào năm 1963 để chống lại chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Ngoài tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng được nhắc đến ở trên, chùa Thiên Mụ còn nổi bật với nhiều công trình kiến trúc có tuổi đời lâu năm khác như: điện Địa Tạng, điện Quan âm, bảo tháp an táng thi hài vị cố Hoàng thượng Thích Đôn Hậu, … mỗi công trình đều có mỗi nét đẹp riêng.
Với nét rêu phong, cổ kính của mỗi kiến trúc, cùng với sự hùng vĩ của tòa tháp, sự trang nghiêm của ngôi điện, … tất cả đều khiến cho du khách mỗi khi tới đây cảm thấy lòng lắng lại, tĩnh tâm, bỏ lại đằng sau những phiền muộn, lo âu để sống thật bình thản và an nhiên. Ấn tượng đọng lại trong mỗi du khách là ở nơi đây đâu đâu cũng toát lên một chút thơ, một chút mộng của xứ Huế, đâu đâu du khách cũng cảm nhận được sự hòa quyện giữa kiến trúc với thiên nhiên như những cung bậc của thi ca.
Chùa Thiên Mụ xứng danh là một bài thơ của con người, với nét đẹp của một cây cảnh đối xứng, là nơi mà thiên nhiên và kiến trúc kết hợp với nhau thành một thể hoàn chỉnh, hoàn chỉnh đến tuyệt vời mà không một ngọn bút nào tả hết được. Chỉ muốn mượn vài dòng của bài thơ “Chùa Thiên Mụ” của nhà thơ Nguyễn Dậu để thay cho lời kết:
“Sông xanh sóng nước lao xao
Tích xưa trào cuốn chảy vào lãng du
Chiều tà lãng đãng sương mù
Đây chùa Thiên Mụ ngàn thu vẫn còn
Phật đường trên, dưới nước non
Sông in bóng nguyệt vẹn tròn lung linh
Cảnh tiên sơn thủy hữu tình
Chùa thiêng ghi tạc bóng hình Huế ơi!”
Thuyết minh về chùa Thiên Mụ – Mẫu 2
Nét đẹp văn hóa tâm linh là một trong những nét đặc trưng và không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt Nam trong việc thắp hương, cầu may,cúng bái thần Phật tại các chùa chiền, đền miếu linh thiêng, cổ kính. Một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất, linh thiêng nhất phải kể đến chùa Thiên Mụ.
Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km về phía tây, được khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng – vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Nơi đây được đặt tên là Thiên Mụ là bởi khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã xem xét hình thế núi non để mưu đồ xây dựng nghiệp lớn, thấy một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại. Được người dân kể lại nơi đây vào ban đêm có một bà già mặc áo đỏ, quần xanh ngồi trên gò đồi mà truyền rằng sẽ có một vị chân chúa đến xây chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, chúa Nguyễn đã cho người xây một ngôi chùa đặt tên là chùa Thiên Mụ và gò đồi kia được người dân đặt tên là Thiên Mụ.
Có thể nói, ngôi chùa này là tụ hội những nét đẹp kiến trúc qua nhiều triều đại, dành được nhiều sự quan tâm của các vua chúa. Dưới thời chúa Quốc, trong giai đoạn Phật giáo xứ đàng Trong vô cùng phát triển và hưng thịnh, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chùa được chúa Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn,nặng tới trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền… tuy nhiên nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn,khắc vào bia lớn (cao 2m60,rộng 1m2) nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây,việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm – người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, chùa từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn. Năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua. Trong đó phải kể đến tháp Phước Duyên _ biểu tượng nổi tiếng của chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân. Tuy vậy, sau trận bão năm 1904, tháp bị tàn phá nặng nề, nhiều công trình không còn nguyên vẹn như đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn. Dù đã được xây dựng lại vào năm 1907 nhưng chùa không còn được to lớn như trước. Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần chiếc xe ô tô – di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963. Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo giúp đời.
Không chỉ có những nét đẹp về kiến trúc mà chùa Thiên Mụ còn có những giá trị đặc sắc. Có thể nói chùa chính là chứng nhân của lịch sử bởi nơi đây đã chứng kiến sự đổi thay của các triều đại từ thời chúa Nguyễn giai đoạn nội chiến Đàng Trong, Đàng Ngoài đến triều đại nhà Nguyễn với nhiều những biến động và sự đổi thay. Chùa còn mang giá trị văn hóa tâm linh trường tồn với nhiều đình tháp có lịch sử hình thành gần 300 năm. Không chỉ vậy, hàng năm chùa đón nhiều đợt khách đến tham quan, cúng bái, thắp hương cầu may đã đem lại giá trị du lịch cao. Chùa Thiên Mụ được xếp vào 20 thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ Thiên Mụ chung thanh do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa.
Như vậy với những giá trị đó, chùa Thiên Mụ chính là niềm tự hào của người dân cố đô Huế nói chung và người Việt Nam nói riêng, quảng bả văn hóa tâm linh của nước ta từ gần ba thế kỷ trước đến với bạn bè quốc tế, cần được bảo tồn và gìn giữ những nét đẹp đến với thế hệ nay và mai sau.
Bài viết số 2: Thuyết minh về di tích lịch sử chùa Thiên Mụ
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Cương”
Nhắc đến Huế, người ta nghĩ ngay đến nhiều địa danh nổi tiếng như: cung đình Huế, núi Ngự Bình,….. Trong số đó phải kể đến chùa Thiên Mụ, ngôi chùa được mệnh danh là ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong.
Chùa Thiên Mụ mang nét cổ xưa, trầm lắng nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km về phía tây, được khởi lập năm Tân Sửu (1601), có từ đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Nơi đây gắn liền với một truyền thuyết rằng xưa kia khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét hình thế núi sông để mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn thì thấy trên cánh đồng của xã Hà Khê thuộc huyện Hương Trà (nay là ngoại ô thành phố Huế), giữa khu đất bằng phẳng nổi lên một gò cao, trông tựa như hình đầu rồng đang ngoái nhìn lại, phía trước thì có sông lớn (chỉ sông Hương), phía sau thì có hồ rộng, cảnh trí rất đẹp. Chúa hỏi người dân địa phương thì được biết nơi đây cứ vào ban đêm xuất hiện một bà già mặc áo đỏ, quần xanh ngồi trên một gò đất nói rằng sẽ có một vị chân chúa đến xây dựng chùa để tụ khí thiêng, giữ long mạch. Chính từ truyền thuyết này mà gò đất kia được người dân đặt tên là gò Thiên Mụ, ngôi chùa sau đó vào năm 1601 được xây dựng trên đồi chính là chùa Thiên Mụ ngày nay.
Làm nên nét đẹp của chùa Thiên Mụ phải kể đến kiến trúc đặc sắc, cổ kính ở nơi đây. Dưới thời chúa Quốc, trong giai đoạn Phật giáo xứ đàng Trong vô cùng phát triển và hưng thịnh, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chùa được chúa Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn,nặng tới trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền… tuy nhiên nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn,khắc vào bia lớn (cao 2m60,rộng 1m2) nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây,việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm – người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, chùa từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn. Năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua. Trong đó phải kể đến tháp Phước Duyên _ biểu tượng nổi tiếng của chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân. Tuy vậy, sau trận bão năm 1904, tháp bị tàn phá nặng nề, nhiều công trình không còn nguyên vẹn như đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn. Dù đã được xây dựng lại vào năm 1907 nhưng chùa không còn được to lớn như trước. Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần chiếc xe ô tô – di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo giúp đời.
Ngoài ra, chùa Thiên Mụ còn có những giá trị đặc sắc như giá trị về lịch sử, là chứng nhân của lịch sử khi chứng kiến biết bao những sự đổi thay, biến động lớn của lịch sử của ba triều đại cuối cùng Việt Nam, cung cấp những tài liệu nghiên cứu cho các nhà sử học. Nơi đây còn mang những nét đẹp của đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam thời xưa, có giá trị du lịch cao thu hút nhiều bước chân của du khách tứ phương tới đây tham quan, thắp hương cầu may.
Chùa Thiên Mụ đã và đang giữ một vị thế không hề nhỏ đối với Việt Nam, lưu giữ những giá trị lâu đời, là niềm tự hào của biết bao người dân xứ Đàng Trong cũng như bao người con đất Việt.
Qua những bài văn mẫu với đề tài thuyết minh về chùa Thiên Mụ đã cung cấp thêm cho chúng ta những kiến thức về một công trình, một di tích chứng nhân lịch sử qua bao thế hệ. Những nét đẹp tâm linh đi sâu vào trong văn hóa của thời đại trước và được lưu giữ phát triển cho đến nay.

Nguyễn Anh Dũng là người nghiên cứu sâu rộng về bản chất, chức năng và ý nghĩa của giấc mơ. Đồng thời cũng là tác giả phụ trách chính cho chuyên mục giải mã giấc mơ trên VerbaLearn. Anh đã dành phần lớn thời gian để ghi nhật ký giấc mơ của chính bản thân đồng thời tìm hiểu và kết nối với các chuyên gia giấc mơ khác trên toàn thế giới thông qua các bài báo, cuốn sách về giấc mơ.