Trải qua hàng ngàn năm đổi thay với những biến động lịch sử, chùa cổ Bái Đính vẫn giữ nét đẹp kiến trúc độc đáo của các triều đại xưa, từ thời nhà Đinh đến thời nhà Lý. Ngoài vấn đề tâm linh thì ngôi chùa này còn được xem như một danh lam thắng cảnh đẹp, mang đậm bản sắc truyền thống dân tộc. Qua một số bài thuyết minh về chùa Bái Đính dưới đây, VerbaLearn mong rằng các bạn sẽ được tìm hiểu kĩ hơn về kiến trúc và lịch sử lâu đời của ngôi chùa này.
Dàn ý thuyết minh chi tiết
Mở bài
– Giới thiệu vấn đề cần thuyết minh: danh lam thắng cảnh chùa Bái Đính.
Thân bài
1. Vị trí và lịch sử hình thành
– Chùa Bái Đính thuộc địa phận xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, cách thủ đô Hà Nội khoảng 100km về phía nam và nằm trong quần thể danh thắng Tràng An.
– Chùa được chia thành hai khu chính: khu chùa mới và khu chùa cổ, mỗi khu có kiến trúc khác nhau nằm dựa vào đỉnh núi.
– Mỗi năm, chùa thu hút một lượng lớn du khách từ khắp mọi miền đất nước cũng như du khách nước ngoài đến tham quan, chiêm bái.
2. Chùa Bái Đính cổ tự (Chùa cổ)
– Đây là ngôi chùa có từ lâu đời thờ Thánh Minh Không nằm trong hang đá thuộc núi Ba Dau. Để đi đến đây, chúng ta phải leo qua nhiều bậc thang bằng đá để lên đỉnh núi.
– Phía bên tay phải là động thờ Phật (còn được gọi là Hang Sáng) nằm trong hang với những pho tượng phật nhỏ.
– Lên trên cũng là điện chính chính là động thờ Mẫu và đức thánh Minh Không (còn được gọi là hang tối), trước đây, hang động này nổi tiếng là linh thiêng vì nằm sâu trong hang đá tối tăm mà không ai khai thông được. Đi vào trong hang sẽ thấy tượng thờ Mẫu, phía tay phải là ao tiên, phía tay trái là tượng đức thánh Minh Không.
– Ấn tượng nhất ở đây: Động tối và Giếng ngọc
3. Chùa Bái Đính tân tự (Chùa mới)
– Chùa được khởi công xây dựng từ đầu những năm 2000, là ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á với nhiều kỷ lục được công nhận.
– Cổng Tam Quan có hai ông hộ pháp được làm bằng đồng canh gác
– Dãy hành lang chạy dài trong khuôn viên chùa được sắp xếp với 500 vị La Hán.
– Tháp Chuông, nơi có Đại Hồng Chung lớn nhất Việt Nam nặng 36 tấn được đúc bằng đồng. Tháp có hai tầng.
– Trống đồng Đông Sơn to khổng lồ đặt dưới chuông.
– Điện Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay được dát vàng trong điện nguy nga, tráng lệ, xung quanh là những thần hộ pháp được đúc bằng đồng. Cột là trụ cho điện hoàn toàn là gỗ lim lâu năm to một người ôm không xuể.
– Điện Pháp Chủ thờ phật Thích Ca Mâu Ni nặng 100 tấn bằng đồng tay cầm búp sen, đây được coi là pho tượng lớn nhất Đông Nam Á.
– Điện Tam Thế thờ ba vị Phật tổ. Mỗi pho tượng nặng 50 tấn được dát vàng với ba tư thế khác nhau.
– Tượng phật Di Lặc hiên ngang giữa trời và tòa bảo Tháp cao 13 tầng thờ Ngọc Xá Lợi phật rước từ nước ngoài về.
– Điểm đặc sắc: Những chi tiết kiến trúc tinh xảo, cầu kỳ – là sản phẩm của 500 nghệ nhân gồm rất nhiều tổ thợ đến từ những làng nghề nổi tiếng như mộc Phúc Lộc, chạm khắc đá Ninh Vân, đúc đồng Ý Yên, thêu ren Văn Lâm, sơn mài Cát Đằng, trạm bạc Đồng Xâm… .
Kết bài
– Khái quát lại vẻ đẹp của chùa Bái Đính.
Thuyết minh về chùa Bái Đính – Mẫu 1
Ninh Bình là vùng đất gắn liền với nhiều huyền thoại, cũng là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh như núi Thúy, song Vân, quần thể hang động Tràng An …Và một trong những danh lam thắng cảnh của đất Ninh Bình không thể không kể đến đó là chùa Bái Đính, một trong số những ngôi chùa, khu du lịch tâm linh lớn nhất của cả nước.
Quần thể chùa Bái Đính tọa lạc tại xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, Ninh Bình, cách cố đô Hoa Lư 3km về phía Tây, cách thành phố Ninh Bình gần 20 cây số và Hà Nội khoảng 97 km. Mỗi năm, chùa thu hút một lượng lớn du khách từ khắp mọi miền đất nước cũng như du khách nước ngoài đến tham quan, chiêm bái.
Chùa Bái Đính cổ có lịch sử hình thành khá lâu đời. Theo sử sách lưu truyền lại, hơn 1000 năm trước, tại kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay) chùa Bái Đính được xây dựng vào thời nhà Đinh, vua Đinh Tiên Hoàng đã chọn chùa là nơi để lập đàn tế trời cầu mưa thuận gió hòa. Đến thời nhà Lý, một vị Thiền sư là Nguyễn Minh Không khi đi tìm vị thuốc quý chữa bệnh cho Hoàng thái tử Dương Hoán, ngài đã phát hiện ra ngôi chùa cùng hai hang động đẹp nằm trên đỉnh núi cao. Không màng danh lợi, sau khi chữa khỏi bệnh cho Thái tử, ngài được vua phong chức cao nhưng đã từ chối, xin vua về ngọn núi đã tìm ra cây thuốc để tu hành và hành nghề lương y. Ngài đã tạo dựng một vườn thuốc quý ở đây để chữa bệnh cho dân. Và ngôi chùa Bái Đính được sửa sang lại quy mô hơn từ đó vì vậy chùa Bái Đính cổ có nhiều chi tiết kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của thời Lý. Theo dân gian, tên Bái Đính được chiết tự: Bái trong chữ lễ bái, Đính là đỉnh, tên Bái Đính có nghĩa là cúng bái thần Phật ở nơi cao nhất.
Quần thể chùa Bái Đính ngày nay bao gồm chùa Bái Đính cổ và chùa Bái Đính mới được khởi công xây dựng từ năm 2000. Cả hai đều nằm dựa vào đỉnh núi, bao quanh là những thung lũng mênh mông hồ và núi đá. Chùa Bái Đính cổ quay mặt về hướng chính tây, nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh, gồm có một nhà tiền đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang sáng thờ Phật, rồi đến sát cuối cửa sau của hang sáng là đền thờ thần Cao Sơn ; rẽ sang bên trái là đền thờ thánh Nguyễn rồi đến động tối thờ mẫu và tiên. Điểm đặc sắc ở đây là Động tối, một động lớn hơn hang Sáng, gồm 7 hang, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng. Điểm đặc sắc thứ hai là Giếng ngọc, nằm gần chân núi Bái Đính, được xây theo lối hình mặt nguyệt, có đường kính 30 mét, độ sâu của nước là 6 mét, được xác nhận kỷ lục: “Chùa Bái Đính là ngôi chùa có giếng lớn nhất Việt Nam” vào ngày 12 tháng 12 năm 2007.
Chùa Bái Đính mới có diện tích khoảng 80 ha, cách chùa cổ về phía Nam khoảng hơn 800 mét, nằm về phía Tây của cố đô Hoa Lư với kiến trúc tiêu biểu bao gồm: Điện Tam Thế, điện Quan Âm, Pháp Chủ, Tháp Chuông, Bảo Tháp,… với những mái vòm nâu sẫm cong vút như hình đuôi chim phượng mang đậm kiến trúc đình chùa Việt Nam, là ngôi chùa có nhiều kỷ lục được công nhận. Từ bên ngoài đi vào, đầu tiên ta thấy cổng Tam Quan, nơi có hai ông hộ pháp được làm bằng đồng canh gác, là nơi giao thoa giữa trần gian và cõi phật, hai bên có dãy hành lang đi lên phía trên.Dãy hành lang này chạy dài trong khuôn viên chùa được bố trí 500 vị La Hán, mỗi vị có hình dáng và tên khác nhau được làm hoàn toàn bằng đá tại làng đá Ninh Vân, Ninh Bình. Sau khi đi qua Cổng Tam Quan sẽ đến tháp Chuông hai tầng, nơi có chiếc chuông đồng lớn nhất Việt Nam nặng 36 tấn và ở phía dưới chuông là chiếc trống đồng Đông Sơn nặng khoảng 70 tấn. Đi lên phía trên là Điện Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay được dát vàng nằm trong cung điện nguy nga, tráng lệ, xung quanh là những thần hộ pháp được đúc bằng đồng. Những cột trụ của điện hoàn toàn là gỗ lim lâu năm to một người ôm không xuể. Đi tiếp theo là Điện Pháp Chủ thờ phật Thích Ca Mâu Ni nặng 100 tấn bằng đồng tay cầm búp sen, đây được coi là pho tượng lớn nhất Đông Nam Á. Trên cùng cũng là khu điện chính, Điện Tam Thế, thờ ba vị Phật tổ tượng trưng cho Quá khứ, Hiện tại, Tương lai. Mỗi pho tượng nặng 50 tấn được đúc bằng đồng dát vàng với ba tư thế khác nhau. Bên cạnh điện Tam Thế là tượng phật Di Lặc, nặng 80 tấn, được xác nhận kỷ lục lớn nhất Đông Nam Á, hiên ngang giữa trời và tòa bảo Tháp cao 13 tầng, được xây dựng theo phong cách kiến trúc Ấn Độ, thờ Ngọc Xá Lợi Phật rước từ Ấn Độ về. Ấn tượng nhất đối với ngôi chùa mới này là những chi tiết kiến trúc tinh xảo, cầu kỳ – mang dấu ấn của những làng nghề truyền thống Việt Nam bởi chúng là sản phẩm của 500 nghệ nhân gồm rất nhiều tổ thợ đến từ những làng nghề nổi tiếng như mộc Phúc Lộc, chạm khắc đá Ninh Vân, đúc đồng Ý Yên, thêu ren Văn Lâm, sơn mài Cát Đằng, trạm bạc Đồng Xâm… . Các nghệ nhân này được sử dụng các vật liệu địa phương như gỗ lim, đá xanh Ninh Bình, ngói men Bát Tràng… để tạo ra nét kiến trúc thuần Việt cho chùa Bái Đính mới.
Chùa Bái Đính thật sự là viên ngọc quý, nơi hội tụ linh khí của trời đất, tâm linh của dân tộc và nhân tài xuất chúng, cũng là sự kết hợp hài hòa giữa bao la của đất trời, nét rêu phong cổ điển của cảnh vật với bàn tay xây dựng của con người mà không ngọn bút nào tả hết được. Chỉ muốn lấy bài thơ “Bái Đính Tràng An” của nhà thơ Trần Việt Tuấn thay cho lời kết:
“Bái Đính – Tràng An đẹp tuyệt vời!
Bức tranh thủy mặc ngắm xem chơi
Thiên nhiên chấm vẽ không cần bút
Nhân thế điểm tô chẳng phải lời
Non nước hữu tình giàu cổ tích
Đền chùa vĩ đại rạng cơ ngơi
Hoa Lư thuở trước còn vang bóng
Cảnh Phật ngày nay sáng cõi đời!”
Thuyết minh về chùa Bái Đính – Mẫu 2
Nước ta có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp có những giá trị độc đáo về văn hóa tâm linh của người Việt như: chùa Hương, chùa Yên Tử,…. Một trong số đó phải kể đến chùa Bái Đính – nét đẹp tâm linh giữa lòng cố đô Hoa Lư.
Chùa Bái Đính là khu du lịch tâm linh xác lập nhiều kỷ lục Châu Á và Việt Nam, là công trình của doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường, nằm ở cửa ngõ phía tây khu di tích cố đô Hoa Lư, bên quốc lộ 38B, thuộc xã Gia Sinh – Gia Viễn – Ninh Bình, nằm ở phía bắc của quần thể di sản thế giới Tràng An. Có thể nói đây là ngôi chùa lớn nhất và nhiều kỷ lục nhất của Việt Nam. Chùa được hình thành từ hơn nghìn năm trước, trên đất Ninh Bình trong khoảng từ thời nhà Đinh đến nhà Lý bởi ba triều đại này đều rất quan tâm đến Phật giáo và đưa Phật giáo lên làm quốc sách hàng đầu cùng với việc xây dựng nhiều chùa chiền. Quần thể chùa Bái Đính hiện nay gồm hai khu: khu chùa cổ và khu chùa mới, nằm trên núi Tràng An.
Trải qua hàng ngàn năm đổi thay với những biến động lịch sử, chùa cổ Bái Đính vẫn giữ nét đẹp kiến trúc độc đáo của các triều đại xưa. Nơi đây nằm cách điện Tam Thế của khu chùa Mới 800m về phía Nam, mặt chùa quay về hướng chính Tây, gồm có một nhà tiền đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang sáng thờ Phật, rồi đến đền thờ thần Cao Sơn_ vị thần cai quản vùng núi Vũ Lâm, là một trong ba đền thờ thần của Hoa Lư tứ trấn ra đời dưới triều Đinh, ở sát cuối cửa sau của hang sáng; rẽ sang bên trái là đền thờ thánh Nguyễn rồi đến động tối thờ mẫu và tiên. Nơi đây hội tụ đầy đủ những yếu tố nhân kiệt theo quan niệm dân gian: đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần. Đặc biệt phải kể đến đền thờ thánh Nguyễn_ người sáng lập chùa Bái Đính Lý Quốc sư Nguyễn Minh Không, ông là là một thiền sư, pháp sư tài danh của thời đại nhà Lý. Sử cũ kể lại, ông đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông đã phát hiện ra hang động đẹp, liền dựng chùa thờ Phật và tạo dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân. Không chị vậy ông còn có nhiều đóng góp lớn như có công trong việc chế tạo “ tứ đại khí”, tổ sư nghề đúc đồng,.. vì thế mà ông được nhân dân lập đền thờ xưng thánh, đền nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng. Ngoài ra còn có giếng ngọc được xác nhận là giếng lớn nhất Việt Nam, tương truyền Nguyễn Minh Không đã lấy nước nơi đây để chữa bệnh cho dân và cho vua Lý Thần Tông. Có thể nói, khu chùa cổ Bái Đính có lịch sử hình thành từ nhà Đinh nhưng đến thời nhà Lý chùa cổ mới được hoàn thiện, mang đậm nét kiến trúc thời Lý.
Khu chùa mới được xây dựng vào năm 2003, có những nét đẹp kiến trúc độc đáo, mang đậm bản sắc truyền thống dân tộc. Kiến trúc nơi đây nổi bật với những hình khối lớn, hoành tráng, sử dụng nguyên vật liệu chính ở địa phương (đá xanh Ninh Bình, gỗ tứ thiết), ngói men Bát Tràng màu nâu sẫm… Đặc biệt chùa mới có vòm mái màu nâu sẫm cong vút hình đuôi chim phượng tạo nên sự khác biệt với mái vòm thẳng thô của chùa Trung Quốc. Các chi tiết kiến trúc nơi đây mang dấu ấn của những làng nghề truyền thống Việt Nam bởi chúng là sản phẩm của 500 nghệ nhân gồm rất nhiều tổ thợ đến từ những làng nghề nổi tiếng như mộc Phúc Lộc, trạm khắc đá Ninh Vân, đúc đồng Ý Yên, thêu ren Văn Lâm, sơn mài Cát Đằng, trạm bạc Đồng Xâm… các nghệ nhân này được sử dụng các vật liệu địa phương như gỗ lim, đá xanh Ninh Bình, ngói men Bát Tràng… tạo nên vẻ đẹp thuần Việt cho chùa mới. Chùa gồm cổng Tam Quan với hai tượng Hộ pháp (ông Thiện và ông Ác), hành lang La Hán với 500 tượng đá mang những vẻ mặt khác nhau, các điện chính như điện Quan Âm, điện Pháp Chủ, điện Tam Thế, tháp chuông, đây là nơi thờ Phật. Ngoài ra còn có tượng Di Lặc_ tượng lớn nhất Việt Nam nằm trên một ngọn đồi của chùa và Bảo Tháp trưng bày xá lợi Phật linh thiêng từ Ấn Độ và Miến Điện.
Lễ hội chùa Bái Đính là lễ hội xuân, diễn ra từ chiều ngày mùng 1 tết, khai mạc ngày mùng 6 tết và kéo dài đến hết tháng 3, khởi đầu cho những lễ hội hành hương về vùng đất cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Không chỉ có những nét đẹp kiến trúc đồ sộ, độc đáo mà nơi đây còn có những giá trị đặc sắc về lịch sử phong kiến xưa, về văn hóa tâm linh, đời sống tâm linh của người Việt và giá trị du lịch cao, thu hút nhiều du khách tứ phương cũng như người dân bản địa đến tham quan, cúng thờ, thắp hương cầu may. Với những giá trị đó, Ninh Bình chính là niềm tự hào của người dân cố đô Hoa Lư nói chung và người Việt Nam nói riêng, quảng bá vẻ đẹp của một nền văn hóa tâm linh của Việt Nam đến với các bạn bè quốc tế.
Thuyết minh về chùa Bái Đính – Mẫu 3
“Ai là con cháu Rồng Tiên
Tháng hai nhớ hội Trường Yên mà về
Về thăm đất cũ Đinh, Lê
Non xanh nước biếc bốn bề như xưa”
Ninh Bình, miền đất cố đô Hoa Lư ngày trước, nổi tiếng với nhiều nét đẹp văn hóa, thiên nhiên đặc sắc, lưu giữ những giá trị lịch sử trường tồn như khu di tích cố đô Hoa Lư, di sản văn hóa thiên nhiên Tràng An,…. Một trong số đó phải kể đến chùa Bái Đính.
Chùa Bái Đính là một quần thể du lịch tâm linh của doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường, nằm ở cửa ngõ phía tây khu di tích cố đô Hoa Lư, bên quốc lộ 38B, thuộc xã Gia Sinh – Gia Viễn – Ninh Bình, nằm ở phía bắc của quần thể di sản thế giới Tràng An và là ngôi chùa lớn nhất, xác lập nhiều kỷ lục Châu Á và Việt Nam. Chùa được ra đời trong khoảng thời gian từ triều Đinh đến triều Lý bởi ở giai đoạn này nhà nước vô cùng quan tâm đến Phật giáo, đưa Phật giáo lên làm quốc sách, xây dựng nhiều công trình chùa chiền, kiến trúc mang hơi hướng Phật giáo, trong đó có chùa Bái Đính.
Điểm đặc biệt làm nên vẻ đẹp Bái Đính nằm ở nét kiến trúc đặc sắc, độc đáo, chùa gồm hai khu: khu chùa cổ và khu chùa mới. Khu chùa cổ nằm cách điện Tam Thế của khu chùa mới 800m về phía Nam, mặt chùa quay về hướng chính Tây, gồm có một nhà tiền đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang sáng thờ Phật, rồi đến đền thờ thần Cao Sơn_ vị thần cai quản vùng núi Vũ Lâm, là một trong ba đền thờ thần của Hoa Lư tứ trấn ra đời dưới triều Đinh, ở sát cuối cửa sau của hang sáng; rẽ sang bên trái là đền thờ thánh Nguyễn rồi đến động tối thờ mẫu và tiên. Chùa cổ Bái Đính có lịch sử hình thành từ thời Đinh nhưng những chi tiết kiến trúc, di vật cổ lại mang đậm dấu ấn thời Lý. Nơi đây hội tụ đầy đủ những yếu tố nhân kiệt theo quan niệm dân gian: đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần. Đặc biệt phải kể đến đền thờ thánh Nguyễn_ người sáng lập chùa Bái Đính Lý Quốc sư Nguyễn Minh Không, đền nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng. Nguyễn Minh Không là một thiền sư, pháp sư tài danh, đóng góp nhiều công lao cho nhà Lý.Theo các tài liệu sử học, ông đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông đã phát hiện ra hang động đẹp, liền dựng chùa thờ Phật và tạo dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân. Ngoài ra còn có giếng ngọc được xác nhận là giếng lớn nhất Việt Nam, tương truyền Nguyễn Minh Không đã lấy nước nơi đây để chữa bệnh cho dân và cho vua Lý Thần Tông. Tiếp đến là khu chùa mời, được xây dựng vào năm 2003, nổi bật với những hình khối lớn, hoành tráng, sử dụng nguyên vật liệu chính ở địa phương (đá xanh Ninh Bình, gỗ tứ thiết), ngói men Bát Tràng màu nâu sẫm… Đặc biệt chùa mới có vòm mái màu nâu sẫm cong vút hình đuôi chim phượng tạo nên sự khác biệt với mái vòm thẳng thô của chùa Trung Quốc. Các chi tiết kiến trúc nơi đây mang dấu ấn của những làng nghề truyền thống Việt Nam bởi chúng là sản phẩm của 500 nghệ nhân gồm rất nhiều tổ thợ đến từ những làng nghề nổi tiếng như mộc Phúc Lộc, trạm khắc đá Ninh Vân, đúc đồng Ý Yên, thêu ren Văn Lâm, sơn mài Cát Đằng, trạm bạc Đồng Xâm… các nghệ nhân này được sử dụng các vật liệu địa phương như gỗ lim, đá xanh Ninh Bình, ngói men Bát Tràng… tạo nên vẻ đẹp thuần Việt cho chùa mới. Chùa gồm cổng Tam Quan với hai tượng Hộ pháp (ông Thiện và ông Ác), hành lang La Hán với 500 tượng đá mang những vẻ mặt khác nhau, các điện chính như điện Quan Âm, điện Pháp Chủ, điện Tam Thế, tháp chuông, đây là nơi thờ Phật. Ngoài ra còn có tượng Di Lặc_ tượng lớn nhất Việt Nam nằm trên một ngọn đồi của chùa và Bảo Tháp trưng bày xá lợi Phật linh thiêng từ Ấn Độ và Miến Điện. Lễ hội chùa Bái Đính là lễ hội xuân, diễn ra từ chiều ngày mùng 1 tết, khai mạc ngày mùng 6 tết và kéo dài đến hết tháng 3, khởi đầu cho những lễ hội hành hương về vùng đất cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Lệ hội nơi đây gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ gồm các nghi thức thắp hương thờ Phật, tưởng nhớ công đức Thánh Nguyễn Minh Không, lễ tế thần Cao Sơn và chầu thánh Mẫu Thượng Ngàn. Phần hội được tổ chức với nhiều trò chơi dân gian, tham quan hang động, thưởng thức những làn điệu Chèo, Xẩm.
Có thể nói chùa Bái Đính là sự kết hợp vô cùng hài hòa giữa xưa và nay, giữa cổ điển và hiện đại, có nhiều giá trị độc đáo về lịch sử, văn hóa tâm linh. Đến với nơi đây, tâm hồn ta như được giải tỏa, thư thái, nhẹ nhõm, những nỗi phiền lo, căng thẳng bị gác lại để hòa vào không khí linh thiêng, trầm lắng. Chùa Bái Đính chính là niềm tự hào của người dân cố đô Hoa Lư cũng như của bao người con đất Việt.
Về với vùng đất Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, ngoài những nét đẹp về kiến trúc đồ sộ, độc đáo, nơi đây còn có những giá trị đặc sắc về lịch sử phong kiến xưa, là một trong những điểm đến cho du khách trong và ngoài nước đến tham quan, cúng bái, thắp hương cầu may. Bài văn thuyết minh về chùa Bái Đính đã cho ta thấy hầu hết mọi giá trị của ngôi chùa này mang lại. Niềm tự hào của bao người con đất Việt.